Tên di sản : Từ đường họ Hoàng

Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa

Loại di tích : Di tích lịch sử

Sô quyết định : 4792/QĐ-UBND

Giới thiệu

Từ đường họ Hoàng nằm ở thôn Bồng Trung, xã Vĩnh Tân, huyện Vĩnh Lộc tọa lạc trên khu đất rộng, cao ráo và thoáng mát quay hướng Nam nhìn ra sông Mã, xung quanh là làng mạc, đồng ruộng trù phú bao bọc.

Hiện tại từ đường họ Hoàng gồm có nhà thờ, sân và cổng.

Cổng: Cổng cao 3,2m, rộng 3,0m, được thiết kế 2 mái có đòn tay rui mè bằng luồng, mái dán ngói ống, hai bên phía trước cổng đắp hai trụ, soi gờ chỉ, nóc trụ cổng gắn búp sen, hai đầu đỉnh mái gắn chim phượng cách điệu, chầu hình hoa lửa ở giữa. Phía dưới thân cổng ở giữa đắp hai chữ Hoàng tộc, cửa xây hình cuốn vòm, cửa rộng 1,87m, cao 2,20m, gồm hai cánh cửa sắt, đóng mở dễ dàng.

Sân: Sân có chiều rộng 5,0m, chiều dài 8,0m, lát gạch bát màu đỏ 0,20m x 0,20m. Góc sân phía đông đặt tấm bia đá.

Toàn bộ hệ thống kiến trúc từ đường được thiết kế theo hình chữ Nhị, bao gồm nhà Tiền đường, nhà Hậu cung. Ngăn cách giữa nhà Tiền đường và Hậu cung là sân thiên tỉnh.

Nhà tiền đường:

Nhà tiền đường có cấu trúc 3 gian 2 dĩ, không có tường hậu. Tường hồi, bít đốc, có chiều dài: 8,1m; lòng nhà rộng 3,15m, hiện trước rộng 1,25m, hiên mái sau rộng 0,90m. Khoảng cách các gian tính theo chiều ngang: gian thứ nhất rộng 2,07m, gian thứ 2 rộng 2,30m, gian thứ 3 rộng 2,07m, hai hồi dĩ: 0,85m. Toàn bộ ngôi nhà có 4 hàng cột, hai hàng cột cái trước, sau, 2 hàng cột hiện trước, sau. Tổng cộng có 8 cột cái bằng gỗ đứng trên hệ thống chân tảng, 1 hàng cột hiên trước, 1 hàng cột hiên sau 4 cột, cột xây bằng gạch trát vữa hồ cát có chiều cao 1,62m, cột xây vuông 0,22m x 22m.

Kết cấu vì kèo:

Các vì kèo nhà Tiền đường giống nhau một kiểu thức, đặc điểm của hệ thống vì kèo này được cấu trúc gồm 2 hàng cột cái trước, sau, hai hàng cột hiên trước, sau; trốn hai hàng cột quân trước, sau.

Bộ khung gỗ của ngôi nhà này có đặc điểm như sau: Quá giang ăn mộng vào đầu cột cái ở phía trước và phía sau. Ở đây trốn 2 hàng cột quân, 2 hàng cột con trước, sau mục đích mở rộng lòng công trình, tăng giá trị sử dụng.

Ở phía trên quá giang là hai trụ đứng, đứng trên bát đấu vươn tới sát mái nhà. Để liên kết hai trụ đứng là câu đầu được ăn mộng vào trụ đứng và hệ thống kèo suốt ở cả hai mái.

Để liên kết hệ thống cột, câu đầu, trụ đứng là hệ thống kẻ được ăn mộng vào cột cái ở mái trước, sau, kẻ hiện ở mái trước gác lên đầu cột hiên, mái sau gác lên đầu cột hiên mái sau. Trên các kẻ này là hệ thống lá dong làm nhiệm vụ đỡ các hoành tải mái trước. Ở cấu trúc ngang là hệ thống các xà dọc (gồm xà thượng, xà hạ, xà thế hoành) liên kết vững chắc cho toàn bộ vì kèo của ngôi nhà. Hệ thống đòn tay, rui, mè bằng luồng, mái lợp ngói mũi hài, đỉnh nóc đắp hai đầu trụ soi gờ chỉ, đầu 2 đấu trụ gắn 2 con kìm, bờ giải xây vuông góc với bờ nóc chạy xuống phía trước xây giật cấp đến 2 đầu mái hiên xây hai trụ mái vuông ở đỉnh mái.

Cửa: Nhà tiền đường có 3 chuông cửa ra vào, cửa bướm làm bằng gỗ, mỗi chuồng 4 cánh, mỗi cánh rộng 0,50m, cửa cao: 1,70m. Toàn bộ 3 chuồng cửa đứng trên hệ thống ngưỡng cửa bằng gỗ. Ngưỡng cửa cao 0,13m, dày 0,25m, đặt các lỗ chốt cửa. Trên khung bạo của trang trí 2 mắt cửa và bức xuân hoa, đố soi gờ chỉ. Ngoài hiên đầu đốc đông mở cửa ra ngoài vườn, cửa cao 1,85m, rộng 1,2m bằng 2 cánh cửa gỗ.

Sân thiền tỉnh: Sân có chiều dài 8,3m, chiều rộng 1,7m lát gạch bát đỏ, đốc tường phía đông đặt tấm bia.

Nhà hậu cung: Nhà hậu cung 3 gian, 2 dĩ, mặt trước 3 gian để thoáng xây theo kiểu tường hồi bít đốc, với kích thước chiều dài 8,86m, chiều rộng 5,13m, chiều cao từ thượng lương đến sàn nhà 3,74m. Kích thước tính theo chiều ngang thân nhà: Từ tường hậu đến cột quân sau 0,80m; cột quân sau đến cột cái sau 0,90m; từ cột cái sau đến cột cái trước 1,43m; từ cột cái trước đến cột quân trước 0,90m, từ cột quân trước đến cột hiên 1,1m.

Kích thước tính theo chiều dọc gian thứ nhất rộng 2,6m, gian thứ 2 rộng 2,34m, gian thứ ba rộng 2,6m, 2 dĩ mỗi dĩ rộng 0,66m.

Cột cái có chiều cao là 3,6m, đường kính cột là 0,62m; Cột quân có chiều cao là 3,1m đường kính cột 0,59m; Kích thước chân tảng 0,33m x 0,33m. Hệ thống cột hiên xây bằng gạch trát vữa xây vuông 0,25m x 0,25m, cột hiên cao 1,75m.

Như vậy tổng cộng ngôi nhà 3 gian 4 vì kèo gỗ có tổng số 14 cột gồm có 6 cột cái, 8 cột quân gỗ, 4 cột hiên xây gạch.

Kết cấu của hai vì kèo chính:

Cơ bản giống nhau về kiểu liên kết theo kiểu giá chiêng, kẻ chuyền. Đặc điểm của hệ thống vì kèo này được cấu trúc gồm: Hàng cột cái sau (trốn hàng cột cái trước), hai hàng cột quân trước, sau, các cột này đều đứng trên hệ thống chân tảng. Một hàng 4 cột hiên được xây bằng gạch.

Hai vì kèo này (vì 2, 3) có đặc điểm như sau: Quá giang ăn mộng vào đầu cột quân ở phía trước, phía sau ăn mộng vào thân cột cái và đường tiếp nối ăn mộng vào đầu cột quân ở phía sau ở đây trốn hàng cột cái trước với mục đích mở rộng lòng công trình, tăng giá trị sử dụng.

Phía trên quá giang ở mái sau, cột cái vươn tới sát mái, làm nhiệm vụ như một trụ đứng. Ở mái trước trụ đứng đứng trên bát đấu nằm trên quá giang, vươn tới sát mái nhà, để liên kết đầu cột cái, trụ đứng và kèo suốt được bổ mộng gắn câu đầu vào, hệ thống kèo suốt vươn tới sát mái tạo điểm đỡ thượng lương.

Để liên kết hệ thống cột, câu đầu, trụ đứng là hệ thống kẻ được ăn mộng vào cột quân ở mái trước, sau. Điểm nối giữa trụ đứng và câu đầu theo cấu trúc dọc, thứ tự từ trên xuống dưới là hệ thống kèo suốt cuối cùng là kẻ hiện ở mái trước gác lên đầu cột hiên, mái sau gác lên tường hậu. Trên các kẻ này là hệ thống lá dong làm nhiệm vụ đỡ hệ thống hoành tải, rui mè. Ở cấu trúc ngang là hệ thống xà dọc (gồm xà thượng, xà hạ, xà thế hoành) liên kết vững chắc cho toàn bộ vì kèo của ngôi nhà.

Kết cấu hai vì kèo hồi (vì 1, 4).

Hai vì kèo 1 và vì 4 có cùng một kiểu liên kết giá chiêng kẻ chuyền, bẩy hiên. Ở đây bộ vì kèo được cấu trúc gồm 5 hàng cột và được liên kết với nhau bằng hệ thống xà lòng, câu đầu, trụ đứng.

Ở vì kèo này quá giang ăn một vào đầu cột quân trước, sau, chạy xuyên qua thân cột cái trước, sau. Ở phía trên đầu cột cái câu đầu ăn mộng vào đầu cột cái trước, sau. Phía trên câu đầu là hai trụ đứng đứng trên bát đấu. Trên đấu trụ này là các con rường được chồng lên nhau ăn mộng vào con rường ngang còn gọi là rường bụng lợn làm nhiệm vụ đỡ guốc thượng lương. Để liên kết hệ thống cột, câu đầu, trụ đứng là hệ thống kẻ được ăn mộng vào cột quân ở mái trước, sau, kẻ ngồi trên đấu trụ, kẻ cong là điểm giữa nối trụ đứng và câu đầu theo cấu trúc dọc. Thứ tự từ trên xuống dưới gồm có hệ thống kẻ ngồi, kẻ cong cuối cùng là kẻ hiện ở mái trước gác lên đầu cột hiên, mái sau gác lên tường hậu. Trên các kẻ này là hệ thống lá dong làm nhiệm vụ đỡ hệ thống hoành tải, rui mè. Ở cấu trúc ngang là hệ thống xà dọc (gồm xà thượng, xà hạ, xà thế hoành) liên kết vững chắc cho toàn bộ vì kèo của ngôi nhà. Toàn bộ đòn tay, rui, mè đều làm bằng luồng mái lợp ngói mũi, bờ giải xây vuông góc với bờ nóc chạy xuống mái hiên, trát vữa hồ tạo thành bờ guột trên đỉnh mái hai đầu độc đắp 2 trụ và gắn 2 con kìm, nền lát gạch hoa nâu đỏ, xung quanh xây tường trát vữa hồ.

Nghệ thuật trang trí:

Nhìn chung về nghệ thuật trang trí trên hệ thống kết cấu kiến trúc trên toàn bộ khung gỗ ở nhà Tiền đường và Hậu cung chủ yếu là bào trơn và soi gờ chỉ ở xà, hoành, kẻ, trụ để tạo nên sự mềm mại uyển chuyển của công trình.

Bài trí đồ thờ:

Bệ thứ nhất, ở gian giữa có ban thờ, phía trong cùng đặt bát hương thờ cụ thủy tổ họ Hoàng, tự Phúc Chính.

Bệ thứ hai ở phía dưới đặt bát hương thờ bà Tổ cô.

Bệ ngoài cùng là ban Hội đồng.

Gian phía tây đặt hương án bằng gỗ thờ cụ Phúc Khang. Gian phía đông thờ cụ tổ Chi 2 hiệu là Phúc Thuần.

Ban thờ đầu đốc tây thờ con cháu trong họ có học vấn, có công với đất nước và thờ cụ Hoàng Tạo thuộc Chi 2 phái 1 họ Hoàng.

Ban thờ đầu đốc phía đông thờ các cụ trưởng tộc khi chết có nhu cầu được cúng trong nhà thờ.

Ở gian giữa nhà Hậu cung đặt bức đại tự ghi: Hoàng tộc từ miếu, nghĩa là: Miếu tổ họ Hoàng: Sở dĩ trước đây gọi là miếu bởi vì sau khi thành lập làng có bốn họ (họ Hoàng, Phạm, Lưỡng Đỗ) trên đất Bồng Trung cùng khai canh lập làng, nhưng dòng họ Hoàng đến sớm hơn và xây miếu trên đất họ để thờ ông tổ. Đến năm 1909 dòng họ xây nhà hậu cung để thờ các ông tổ dòng họ và được trùng tu lại năm 1924. Đến năm 1941 dòng họ xây dựng từ đường như hiện nay.

Hai đôi câu đối được treo ở gian giữa nhà tiền đường.

Một đôi câu đối ở hàng cột cái có nội dung:

Phiên âm:

                   Thế thế truyền đệ Phạm huynh Hoàng, nhất bản song cán

                   Đại đại xuất văn thần võ tướng, thiên nhi vạn tôn.

Dịch nghĩa:

                 Đời đời truyền em họ Phạm, anh họ Hoàng, một gốc hai cành.

                Thời thời xuất văn thần võ tướng, nghìn con vạn cháu.

Đôi câu đối treo ở hàng cột quân có nội dung như sau:

Phiên âm:

                        Tích mẫn mang sùng diên hậu mạch

                        Chi phồn phùng sách diễn khôi cơ.

Dịch nghĩa:

                      Tích xưa di tản nay vun bồi lại cho mạch thêm dài

                      Chi phái phồn thịnh nối dài cơ đồ.

Hàng chữ Hán được trang trí ở bức xuân hoa phía trên hệ thống cửa nhà tiền đường có nội dung như sau:

1. Phiên âm:

Tu tư ư

Dịch nghĩa:

Tụ họp về đây.

2. Phiên âm:

Bản tổ họ

Dịch nghĩa:

Con người gốc ở tổ tiên.

Phiên âm:

Lai viễn độ

Dịch nghĩa:

Người từ xa tới đây.

Long ngai cao 0,97m; dài 0,64m; rộng 0,50m. Đế cao 0,31m. Tay ngai là hình đầu rồng, thân là sáu con tiện được trang trí hình vân mây uốn lượn được sơn son thếp vàng. Đế ngai trang trí hình mặt hổ phù, hoa cúc cách điệu.

Bia số 1: Cao 0,95m; rộng 0,60m, lòng bia rộng 0,46m; trán bia cao 0,25m. Bia được làm bằng một tấm đá nguyên khối, dựng độc lập ở góc sân phía đông nhà hậu cung, trán bia có đường chỉ tròn nội tiếp. 2 rồng chạm theo phong cách cúc hóa long được điểm xuyết các dải mây. Viền đáy và 2 viền biên không khắc. Toàn văn chữ Hán khắc chữ chân. Mặt bia bị đục nham nhở còn lại một số chữ có nội dung: Quý Mùi niên tạo, niên đại Bảo Đại 18 (1943), người soạn: Hoàng Tốn. Bia ghi: Họ Hàng lập am miếu, mua sắm lễ vật để cúng giỗ tổ tiên, ghi ngày giỗ của bố mẹ.

Bia số 2: Theo các cụ của dòng họ Hoàng cho biết vào năm 1999, sau khi Hợp tác xã đi làm thủy lợi phát hiện ra bia này ở chân núi Mông Cù và dòng họ chuyển về gìn giữ tại nhà thờ họ Hoàng.

Bia: Cao 1,05m; rộng 0,85m, lòng bia rộng 0,55m, trán bia cao 0,25m.được làm bằng một tấm đá nguyên khối, dựng độc lập ở góc sân nhà tiền đường, trán bia chạm rồng theo phong cách cúc hóa long được điểm xuyết các dải mây. Viền đáy và 2 viền biên chạm cúc dây leo. Toàn văn chữ Hán. Đây là bia viết bằng chữ hành, đá thảo. Không viết bằng kiểu chữ chân thông thường. Vì vậy để giải mã được văn bản Hán Nôm này cần có thời gian nghiên cứu cụ thể và cần có sự phối hợp với cơ quan chuyên ngành (Viện Hán Nôm) mới có thể thực hiện được. Hiện tại chúng tôi mới sơ lược được nội dung như sau:

Bia dựng năm Thiệu Trị thứ 4, dựng ở núi Chẩm, nêu ý nghĩa của việc xây mộ, ruộng cúng và nhà từ đường, dặn dò con cháu cứ đến tháng cuối đông thì tổ chức cúng bái để giữ lấy của hương hỏa để lại cho con cháu mãi đời sau. Nội dung bia không thể hiện được ruộng nào, mộ nào, nhà từ đường nào mà chúng ta cần nghiên cứu bổ sung cho nội dung di tích từ đường họ Hoàng.

Hình ảnh Từ đường họ Hoàng

Xem tất cả
Từ đường họ Hoàng

Tài khoản

Video clip

Liên kết

Hoạt động văn hóa nổi bật